Trong cộng đồng Kòn Cau hay các tộc bản xứ người Nam Tây Nguyên, có một nghi lễ rất đặc biệt. Đến một giai đoạn nào đó trong đời sống, khi con cái lớn khôn và có thể tự lập bằng sức lực của mình, họ thường tổ chức một nghi lễ rất ý nghĩa. Những ai khá giả hơn, họ sẽ hiến tế một con vật nào đó có thể là trâu, bò, heo cho Thần linh và tổ tiên, qua việc gắp cơm nếp và thịt con vật con vật đã hiến tế cho bố mẹ (hoặc người nuôi dưỡng) mình và anh chị trong dòng tộc, dòng họ, gia đình. Họ sẽ được đáp lại bằng lời chúc phúc qua việc đặt tay, cầu nguyện. Đối với người M’Nông (nhánh Biat), họ gọi với một cái tên rất thân quen “Gŭc phăn lơ̆h Mê̆ Mbơ̆ in” – nghĩa là hiến tế con vật cho bố mẹ. Ngày nay, trong thời đại này, chúng ta thường hiểu là nghi lễ báo hiếu. Nhưng cách gọi tên này không đủ lực để nói đến ý nghĩa bao trùm của nghi lễ này.
Để bắt đầu phân tích, người viết xin bắt đầu một câu chuyện kể cổ xưa:
Trong một gia đình nọ có hai người con. Hai người này sinh đôi. Theo truyền thống của họ, ai ra đời trước thì mặc nhiên là anh trong gia đình, dòng họ, dòng tộc. Khi người cha cảm thấy mình sức lực đã suy tàn, ông cho vời người con cả đến và truyền làm cho ông một món ăn ngon, để ông đặt tay chúc phúc. Vì theo truyền thống của bộ tộc này, người con cả là người sẽ hưởng lời chúc phúc từ người cha của mình. Là một thợ săn, anh chàng này đã ra đồng hoang với hy vọng sẽ săn được một con nai và mang về làm thịt cho cha của mình. Người cha lúc này mắt cũng đã mờ.
Nhưng người mẹ lại yêu quý người con thứ hơn. Ba đã chủ động truyền cho người con thứ chuẩn bị con bê béo tốt để bà làm thức ăn cho cha. Và bà truyền cho đứa con thứ này giả dạng người anh cả bằng việc khoắc lên mình lớp da thú. Vì người anh lông lá đầy người. Anh chàng con thứ này đã vâng lời mẹ, và người cha đã vô tình chúc phúc cho anh. Qua lời chúc phúc đó, người con thứ đã trở thành người thừa hưởng mọi gia nghiệp của dòng họ, dòng tộc của mình.
Đó là câu chuyện được viết lại trong Kinh Thánh (x. St 27, 1-40), như một truyền thống cổ xưa của người Do Thái. Trong các nền văn hóa khác, có nghi lễ tương tự, chẳng hạn:
Người Igbo ở Đông Nam Nigeria có phong tục gọi là “Igo Mma Opara,” trong đó người cha ban phước cho con cái, thường là con trai trưởng, để chuyển giao quyền thừa kế đất đai và trách nhiệm gia đình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu người con trưởng không đáp ứng được kỳ vọng, người cha có thể chọn một người con khác bằng cách thực hiện nghi lễ chúc phúc công khai, kèm theo việc dâng thức ăn hoặc rượu cọ cho tổ tiên. Lời chúc phúc này mang tính quyết định và được cộng đồng công nhận.[1]
Trong văn hóa Akan, nghi lễ “Nkabom” liên quan đến việc cha mẹ ban phước cho con cái trong các dịp đặc biệt, như lễ trưởng thành hoặc trước khi qua đời. Người cha hoặc mẹ thường đặt tay lên đầu đứa con, nói lời chúc phúc để truyền đạt sức mạnh tinh thần, sự khôn ngoan, và quyền lãnh đạo gia tộc. Đáng chú ý, trong một số trường hợp, người con thứ có thể nhận được lời chúc phúc đặc biệt nếu họ chứng minh được phẩm chất vượt trội, chẳng hạn qua việc chăm sóc gia đình hoặc đóng góp cho cộng đồng.[2]
Người H’Mông có truyền thống tổ chức nghi lễ chúc phúc gia đình, trong đó cha mẹ, đặc biệt là người cha, ban phước cho con cái trong các dịp như năm mới hoặc trước khi con cái lập gia đình. Nghi lễ này thường đi kèm với việc giết mổ gia súc (như gà hoặc lợn) và lời cầu nguyện để tổ tiên chứng giám. Lời chúc phúc không chỉ mang ý nghĩa bảo vệ mà còn trao quyền tự chủ hoặc trách nhiệm cho người con, đôi khi bất kể thứ tự sinh, tùy thuộc vào sự lựa chọn của cha mẹ.[3]
Và nghi lễ báo hiếu của người M’Nông có mang ý nghĩa tương tự như các tộc người khác được trình bày trên đây hay không ? Để tìm hiểu ý nghĩa của nghi lễ này, chúng ta cần đi trình tự các tràng nghi lễ và ý nghĩa của chúng. Nhưng trước hết là ý nghĩa bao quát:
Như đã trình bày, nghi lễ này thường được bắt đầu khi người con có đủ khả năng để tự mình có thể làm ra được của cải, hoặc nuôi được các con vật và muốn hiến tế để cầu xin sự chúc phúc của cha mẹ và các vị cao niên. Đôi khi, người con cảm thấy cần hoặc khi bố mẹ già yếu. Trong trường hợp này, con cái không nhất thiết phải có của cải, anh chị hoặc những người thân cận trong gia tộc, dòng họ, dòng tộc có thể giúp đỡ một hoặc nhiều thành viên trong gia đình bằng việc trợ giúp của cải, vật nuôi để thực hiện nghi lễ. Hoặc đã một thời gian lập gia đình và chung sống với bố mẹ, vợ chồng muốn cùng con cái dâng hiến vật tế để xin phúc lành. Như vậy nghi lễ của Kòn Cau phát xuất từ ý muốn của con cái để được phúc lành từ cha mẹ và các thành viên lớn tuổi khác. Như vậy, nghi lễ này không chỉ là hành vi báo hiếu theo lối hiểu hiện tại, mà còn là nghi lễ cầu xin phúc lành hay cầu phúc.
Vậy trình tự nghi lễ và ý nghĩa của chúng như thế nào ?
Ông Trê Wan, 71 tuổi, trú tại buôn Đạ Lin, xã Liêng Srôñ kể lại rằng:
Trước hết, trong sự mong muốn của con cái, họ sẽ chủ động thưa chuyện với bố mẹ và những người thân cận (bà con cô bác) về mục đích, xác định ngày tháng tổ chức. Lúc này, những vị cao niên sẽ được mời tới cùng với bà con trong dòng họ, dòng tộc. Người ta sẽ hiến tế gà và mở hủ rượu cần để bắt đầu câu chuyện. Đồng thời, các vị bô lão có uy tín sẽ hướng dặn dò, dẫn cách thức và các nghi lễ liên quan, chọn người làm chủ lễ. Thường thường, họ sẽ chọn một ngày rảnh rỗi nào đó. Sau khi đã ấn định ngày tháng, thông tin sẽ được truyền đi bởi các thành viên của gia đình đến bà con, buôn làng và các vị khách mời bắt đầu ngày hôm sau. Trước đây, người ta không xác định ngày tháng cụ thể, mà chỉ dựa vào tự nhiên, như sự thay đổi của mặt trăng, sau vụ mùa, hoặc lúa bắt đầu trổ đòng, v.v. Những vị khách mời ở xa sẽ chủ động. Họ có thể đến sớm hơn, ở lại nhà bà con người thân quen trong một vài ngày để có thể tham dự đúng ngày. Không bao giờ đi không, các vị khách mời luôn mang theo những gì có thể góp vui cho nghi lễ, đó là hủ rượu cần, gạo, vật nuôi, hoa màu, v.v.
Ngày ấn định đã đến, con vật được chọn sẽ được mang ra khỏi chuồng, họ sẽ cột chúng phía trước ngôi nhà sàn, trước sự quy tụ và chứng kiến của đông đảo của những người được mời đến. Khi đó trong nhà, hủ rượu cần sẽ được khui, không phải để mời các vị khách mà là để cầu nguyện, kèm theo đó là sự sát tế một con gà. Máu vật sát tế và rượu cần được trộn lẫn để bôi lên bàn thờ, như là lời thưa gửi lên các Yàng và các vị tổ tiên, để trình bày lý do của việc quy tụ và hiến tế này. Người ta sẽ đặt tay lên con vật và kèm theo lời cầu nguyện trước khi việc sát tế được diễn ra. Ngay sau đó, việc cắm cần vào hủ rượu cần cũng là hành vi mang tính cộng đồng, mọi người đều chạm tay vào cần và vị cao niên hay chủ lễ sẽ là người cắm sau cùng kèm theo lời cầu nguyện.
Nghi lễ thưa gửi xong, họ sẽ tiến hành việc sát tế con vật tế lễ chính. Người ta sẽ rót rượu cần vào một cái ống tre nhỏ, họ mang ra và rót từ từ vào đầu con vật kèm theo lời cầu nguyện. Lời nguyện này có nội dung thưa gửi lên Thần linh (Yàng) và tổ tiên, rằng đây sẽ là con vật được hiến tế cho nghi lễ. Nếu đó là con trâu, người ta sẽ trùm lên đầu nó một tấm chăn như muốn nói đến một cuộc ra đi, sự gửi gắm tâm tư lên con vật để khi nó được hiến tế, nó sẽ mang những tâm tình đó cho Thần linh và tổ tiên. Vì người ta quan niệm rằng, mọi con vật được hiến tế sẽ trở nên linh thiêng và có thể nối kết với thế giới thần thiêng. Bên cạnh con vật hiến tế, nếu là trâu bao giờ cũng có cây nêu (ndah, kơndah), nếu không sẽ là hình ảnh một bàn thờ Thần linh (jơnao, nao Yàng). Đó là một khung hình vuông hoặc hình chữ nhật được làm bằng tre nứa tượng trưng cho vũ trụ quan có Thần linh hiện diện, bốn góc là các tua rua dài như râu thần (vì không biết được vị Thần tối cao là nam hay nữ).
Nghi thức thưa gửi xong, vị chủ sự sẽ tiến hành cầu thần. Tiếng tù và sẽ được rúc lên, tiếng chiêng sẽ vang vọng, vị chủ sự sẽ hát cầu Thần bằng bài ca truyền thống. Bài ca này là thuộc văn vần truyền khẩu người ta có thể hát, kể hoặc ngâm ngợi. Sau đó là tiếng reo hò, việc sát tế diễn ra trong tiếng nhạc, điệu múa dân gian bởi cộng đồng xung quanh cây nêu và vật hiến tế. Người đàn ông hoặc thanh niên khỏe nhất được tuyển chọn sẽ thực hiện việc sát tế này. Thường thường, người này dùng giáo để đâm đúng nơi huyệt tử của con vật, trước đó, khuỷa chân của nó được chặt đi tránh sự vung vẫy. Khi con vật ngã gục và tắt thở, cũng là lúc điệu nhảy cũng như tiếng nhạc dừng lại, người ta sẽ dùng máu con vật và bôi lên người tham dự, cột nêu, bàn thờ, không gian hiến tế, v.v. trước khi mang đi mổ xẻ.
Nếu vật hiến tế cầu phúc là heo, việc hiến tế đơn giản hơn. Người ta chỉ rót rượu cần, cầu thần và sát tế. Tuy theo việc hiến tế cho một hoặc nhiều đối tượng (thường là cả bố mẹ), con vật sẽ được xẻ đôi hoặc giữ nguyên. Người ta sẽ chặt đầu của con vật và để riêng ra. Về sau, phần này như chỉ dành cho những người con trong dòng tộc, dòng họ quy tụ bên bố mẹ của mình. Riêng bộ phận nội tạng (gan, dạ dày – ruột non), họ dành riêng, chế biến chín và thái ra thành từng miếng nhỏ. Bên cạnh đó, cơm nếp được nấu chín. Các thứ này được để trong những chén nhỏ (tùy theo số lượng người tham dự từ dòng họ hai bên). Cùng với những thứ này là ly rượu cần, chén rượu cần có trộn máu vật hiến tế và trấu được lấy từ rượu cần. Đồng thời, người tổ chức hiến tế cầu phúc cho người thân sẽ chuẩn bị những món quà quý giá cho bố mẹ, anh chị. Nếu đó là hai vợ chồng, món quà được chuẩn bị sẽ tăng lên phụ thuộc vào số thành viên là người lớn tuổi hơn trong dòng họ, dòng tộc, gia đình của từng người. Món quà có thể là con trâu, bộ cồng chiêng, áo và khố truyền thống, chuỗi hạt cườm, ngà voi, v.v.
Tiếp đến là nghi lễ cầu phúc. Trong khi mọi người quy tụ chung quanh không gian thiêng trong nhà, ở giữa họ đặt thịt con vật vừa được mổ xẻ sạch sẽ. Đầu con vật được hướng vào bàn thờ thần linh tại trung tâm ngôi nhà sàn. Người báo hiếu cầu an tiến ra theo sự chỉ dẫn của vị chủ lễ. Họ tiến đến chỗ của nhân vật chính, tay cầm ly rượu cần, chén cơm nếp và nội tạng con vật đã được chế biến. Lúc này, họ trình bày lời cám ơn, nguyện vọng của mình, nếm rượu cần và mời người mà họ cầu xin ân lời chúc phúc uống rượu cần đó, sau đó, họ mời cơm và nội tạng con vật, cùng với những món quà. Đáp lại, trong từng cữ chỉ, người được mời sẽ khẩn cầu Yàng, khấn xin tổ tiên. Người này sẽ dùng lông gà để nhúng vào dung dịch máu cùng rượu cần và trấu, họ bôi lên tay, lên trán người được chúc phúc kèm theo lời cầu nguyện. Người ta gọi hành vi này là “răc còt” (đọc là chòt) nghĩa đen là “cầu nguyện bằng trấu.” Các cụ diễn giải rằng, lúa gặo rất quan trọng, chúng như là sự hiện thân của Thần linh ở gần con người. Đặc biệt, phần cơm đã lên men, được ví như Yàng Ba (Yàng Kòi) ở với con người. Do đó, việc dùng bã rượu cần có trấu là biểu tượng cho sự hiện diện của Thần linh. Trong nhiều nghi lễ, gạo là vật phẩm linh thiêng thường không thể thiếu. Ví dụ như quy tụ hỏi ý người thân về lời trăng trối hoặc mong muốn của bản thân mình khi người thân được chôn cất; nghi thức ly dị vợ chồng; truyền tin nhờ trợ giúp, v.v. Bên cạnh đó, máu con vật hiến tế và rượu cần như là biểu tượng sức mạnh và sự nối kết với các vị thần và tổ tiên. Chỉ có các cụ cao niên mới có thể thực hiện nghi lễ “răc còt” này, những người khác chỉ có thể cầu khẩn qua những lần đáp lại hành vi của người cầu an. Thực hiện xong nghi lễ cho từng người, món qua sẽ được người nhận lãnh phúc lành trao cho người chúc phúc.
Như thế, sau khi lần lượt từng người được hoàn tất, họ sẽ tập trung xung quanh con vật hiến tế, mọi người cùng đặt tay lên con vật. Lời nguyện chung được dâng lên trong sự khởi xướng của vị chủ lễ. Sau đó, phần thịt con vật sẽ được trao cho nhân vật chính là người được báo hiếu và cầu an. Nếu là bố mẹ hai bên, con vật sẽ được sẻ đôi, còn nếu là một bên sẽ giữ nguyên. Phần thịt này và những gì mà các vị khách mang theo người ta sẽ dùng chung cho đến khi không còn gì. Có khi, phần thịt của con vật hiến tế như món qua dắt lưng cho các vị khách và buôn làng. Tuy nhiên, đầu con vật được dành riêng như đã trình bày.
Các cụ còn nói thêm rằng: ngày xưa, khi đã đủ tuổi nghĩa là đã trải qua nghi lễ cà răng căng tai, người thụ lễ được xác nhận là trưởng thành trong một nghi lễ tế thần ăn dê mới có thể thực hiện việc báo hiếu cầu an. Vì lúc đó, đã có ý thức đủ và có khả năng tự lập để lập gia đình. Nghi lễ này được thực hiện khi người thụ lễ đã trưởng thành có khả năng đáp lễ và mong muốn được bố mẹ chúc lành để tiến tới việc lập gia đình riêng. Nhưng sau này, do bối cảnh, người ta thường thực hiện sau khi đã lập gia đình và chung sống với bố mẹ hoặc ở riêng trong một khoảng thời gian nào đó và họ có khả năng để thực hiện nghi lễ này cho người thân của mình.
Vào trước dịp Tết Nguyên Đán tháng 2 năm 2025, người viết có cơ hội được tham dự nghi lễ báo hiếu cầu này tại Đạ Tồn (Dàk Ntồn) thuộc thôn 1, xã Rôh Men, huyện Đam Rông. Do gia đình anh vợ chồng anh K’ Lâm (người dân gọi là Bàp An) và K’ Vân (mẹ An) tổ chức cho bố mẹ của mình. Anh K’ Lâm mới sinh ra, không may, người mẹ qua đời. Người dì nhận nuôi, anh lớn lên bên gia đình dì và chú của mình. Bởi đó, việc thực hiện nghi lễ này hướng về cả hai là người bố ruột và hai người nuôi nấng. Vùng này thuộc địa phận của người M’Nông Gar và M’Nông Biat. Được biết rằng, khi xưa, ranh giới từ Liêng Srôñ trở ra Đắk Lắk và Đắk Nông là địa phận của người M’Nông. Nhà Dân tộc học Georges Condominas có nói sơ qua về ranh giới của người M’Nông trong cuốn ‘Chúng tôi ăn Rừng.’ Ranh giới cư trú của người Mạ kéo dài từ Liêng Srôñ đi lên Phi Liêng, R’Ba (Phú Sơn), Phitô, R’Lơm rồi xuống Di Linh và Bảo Lộc. Nhưng rồi trong thời Champa, ranh giới Di Linh xuống Đắk Lắk, Đắk Nông có sự xáo trộn do sự đô hộ của Champa. Mặt khác, trong thời Pháp và Mỹ, thường xuyên có những cuộc di dân hay dồn dân, thậm chí có những làng bị xóa sổ. Chính vì vậy, từ Đạ Đờn thuộc huyện Lâm Hà cho đến Đam Rông có sự đan xen giữa người Mạ và người M’Nông.
Vùng này, hầu hết mọi người ở đây đã đón nhận đức tin Công giáo, một phần Tin Lành. Gia đình anh K’ Lâm đều là người Công giáo. Việc thực hiện các nghi thức theo truyền thống rất ngắn gọn và chỉ giới hạn trong gia đình. Họ cũng đã bỏ các nghi lễ có sử dụng máu con vật. Đồng thời, các cụ cao niên có đạo cũng luôn bắt đầu bằng việc làm dấu Thánh giá và cầu nguyện với Chúa (Yàng) để xin phúc lành cho con cái. Sau các nghi thức truyền thống, vào ngày hôm sau là ngày dành cho khách mời. Hôm đó, thay vì món ăn truyền thống, họ có thể thuê dịch vụ nhà hàng. Như vậy, họ vừa giữ nét truyền thống vừa hội nhập cái mới, như là một sự tất yếu của quá trình hội nhập văn hóa. Do cấu trúc xã hội đã bị phá vỡ từ lâu, những câu hát, nhạc cụ truyền thống không còn được sử dụng, các nghệ nhân cũng dần ẩn mình. Thay vào đó, họ sử dụng các nhạc cụ hiện đại, các bài hát theo xu hướng.
Như vậy, nghi lễ báo hiếu cầu phúc của người M’Nông, cũng như các nghi lễ tương tự trong văn hóa Do Thái, Igbo, Akan, hay H’Mông, không chỉ là một hành vi văn hóa hay tôn giáo đơn thuần, mà còn là biểu tượng sâu sắc của mối liên kết thiêng liêng giữa con người, tổ tiên, và thần linh. Những nghi lễ này mang ý nghĩa vượt thời gian, khẳng định giá trị của lòng biết ơn, sự kính trọng đối với bậc cha mẹ, và khát vọng nhận được phúc lành để tiếp tục hành trình cuộc sống. Qua việc hiến tế, cầu nguyện, và trao đổi lời chúc phúc, các cộng đồng này không chỉ duy trì truyền thống mà còn củng cố sự gắn kết gia đình, dòng tộc, và cộng đồng. Đặc biệt, nghi lễ báo hiếu cầu phúc của người M’Nông không chỉ dừng lại ở khía cạnh “báo hiếu” theo nghĩa thông thường, mà còn là một hành trình tâm linh, nơi con người tìm kiếm sự bảo vệ, dẫn dắt, và sức mạnh từ thế giới thần thiêng thông qua sự chứng giám của cha mẹ và tổ tiên.
Ý nghĩa bao trùm của các nghi lễ này nằm ở chỗ chúng thể hiện sự tiếp nối giữa các thế hệ, giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và vũ trụ thiêng liêng. Việc đặt tay, dâng lễ vật, hay sử dụng các biểu tượng như máu, rượu cần, cơm nếp, và trấu không chỉ là những hành vi mang tính nghi thức, mà còn là cách con người bày tỏ niềm tin vào một trật tự vũ trụ, nơi thần linh và tổ tiên luôn hiện diện để hướng dẫn và chở che. Hơn nữa, những nghi lễ này còn cho thấy sự linh hoạt và khả năng thích nghi của văn hóa truyền thống trong bối cảnh hiện đại, như cách người M’Nông tại Đạ Tồn kết hợp đức tin Công giáo vào nghi lễ, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc vừa hòa nhập với những giá trị mới. Điều này phản ánh một chân lý sâu xa: truyền thống không phải là thứ bất biến, mà là một dòng chảy sống động, có thể dung hòa và làm phong phú thêm ý nghĩa khi đã đón nhận đức tin.
Trong bối cảnh Kitô giáo, các nghi lễ này gợi nhắc chúng ta về những bí tích mà Chúa Giêsu đã thiết lập, dựa trên nền tảng của truyền thống Do Thái. Ngài đến không để phá hủy Luật Cũ, mà để làm sáng tỏ và hoàn thiện nó (x. Mt 5,17). Các bí tích như Rửa Tội, Thánh Thể, hay Xức Dầu Bệnh Nhân đều mang dấu ấn của những nghi lễ cổ xưa, nơi con người dâng lên Thiên Chúa những lễ vật và nhận lại ân sủng thiêng liêng. Ví dụ, việc sử dụng nước trong bí tích Rửa Tội có thể gợi nhớ đến các nghi thức thanh tẩy trong truyền thống Do Thái, trong khi bí tích Thánh Thể, với bánh và rượu, phản ánh sự hiến tế và giao ước của dân Israel. Qua đó, Chúa Giêsu đã nâng các nghi lễ này lên một tầm cao mới, biến chúng thành những kênh ân sủng, nơi con người không chỉ kết nối với cộng đồng mà còn với chính Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự hiểu biết về các bí tích Kitô giáo trong mối liên hệ với truyền thống Do Thái và các nghi lễ văn hóa khác có thể là một thách thức đối với nhiều người. Liệu chúng ta có thực sự nhận ra rằng những hành vi như đặt tay, dâng lễ vật, hay cầu nguyện trong các nghi lễ truyền thống đều là những dấu chỉ tiên báo về các bí tích mà Chúa Giêsu đã thiết lập? Liệu chúng ta có nhận thấy rằng, qua các bí tích, Chúa Giêsu không chỉ nối dài truyền thống của dân Israel mà còn mở ra một con đường để mọi dân tộc, từ người M’Nông đến người Igbo, có thể tham dự vào ân sủng của Ngài? Và quan trọng hơn, chúng ta có sẵn sàng đào sâu ý nghĩa của các bí tích này, để không chỉ thực hành chúng như một nghi thức, mà còn sống trọn vẹn trong sự kết hiệp với Thiên Chúa và cộng đồng? Những câu hỏi này mời gọi mỗi người đọc suy tư về cách mà đức tin Kitô giáo, qua các bí tích, tiếp tục làm sáng tỏ và hoàn thiện những giá trị thiêng liêng của nhân loại, từ truyền thống Do Thái đến các nền văn hóa bản địa trên khắp thế giới.
Tết Nguyên Đán 2025, tại Đạ Tồn,
Người con Fyan
[1] x. Victor C. Uchendu, The Igbo of Southeast Nigeria (New York: Holt, Rinehart and Winston, 1965), 56-60.
[2] x. Kwasi Wiredu, Cultural Universals and Particulars: An African Perspective (Bloomington: Indiana University Press, 1996), 89-93.
[3] x. Patricia V. Symonds, Calling in the Soul: Gender and the Cycle of Life in a Hmong Village (Seattle: University of Washington Press, 2004), 112-118.