Mới nhất

Địa danh Dà R’Kôh

Dà R’Kôh là một địa danh tại vùng đất Lâm Hà, không chỉ là tên của một thôn, mà còn là biểu tượng của sự kết nối sâu sắc giữa các tộc người Mạ và M’Nông. Xuất phát từ những nguồn gốc đa dạng như Philiêng, Liang Srồñ, Dà Lin, Dà R’Săl. Dà R’Kôh đánh dấu sự ổn định và sự định cư lâu dài của cộng đồng này trong vùng. Trong tên gọi “Dà Rkôh”, tiếng nước trở nên sống động, là biểu hiện của sự quan trọng của dòng nước đối với cuộc sống và văn hóa của họ, với những đặc tính đặc biệt riêng biệt.

Địa danh Dà R’Kôh

Dà R’Kôh, một tên gọi truyền thống của một địa danh, hiện tại là thôn 3 thuộc xã Đạ Đờn, Lâm Hà, Lâm Đồng, vẫn giữ vững định danh từ ngày xưa. Vùng đất này, là nơi cư trú của người Mạ, nằm về phía bên trái của quốc lộ 27 khi đi lên Đắk Lắk. Ranh giới của nó giáp với thôn 4 về phía Đông, thôn An Phước về phía Bắc, thôn 2 về phía Nam, và sông Đạ Đờn về phía Tây. Nơi này còn lưu trữ nhiều câu chuyện thú vị về Mpồng Yàng (cửa thần), Wàng R’Pu (bãi trâu thân Iŭt), và Srò Kŏ Iŭt (suối thần Iŭt đặt nơm). Với vị trí địa lý cụ thể ở 11°48’57” Bắc, 108°13’10” Đông, Dà R’Kôh được ghi nhận như một phần không thể thiếu của địa lý và văn hóa của khu vực.

Đây là một ngôi làng đa dạng với nhiều nhóm cư dân sinh sống dọc theo bờ sông Đạ Đờn. Tại đây, hai làng song hành nhưng tự đặt biệt danh của mình: làng Rôh Men, dùng phương ngữ M’Nông nhưng xem mình là người Mạ hoặc M’Nông (tùy theo từng hộ gia đình); và làng Phi Srồñ, có nguồn gốc từ M’Nông nhưng sử dụng ngôn ngữ trung gian giữa M’Nông và Mạ, và tự xưng là người Mạ. Làng Kòn Iar, gồm các nhóm Phi Liêng, Phi Nơm, Phi Ntơu, đều thuộc cư dân gốc Mạ. Làng Phi Lŭn, gần ranh giới với thôn 2, sử dụng ngôn ngữ tương tự như người R’Men, có thể có nguồn gốc từ M’Nông. Mặc dù có những sự khác biệt văn hóa như vậy, nhưng mối liên kết giữa các gia đình qua các dòng họ là điều phản ánh lịch sử dồn dân và lập ấp trong quá khứ.

Nguồn gốc cư dân Dà R’Kôh

Theo những câu chuyện của các vị cao niên, cư dân tại địa phương này thuộc lớp người di cư, là kết quả của chiến lược dồn dập và lập ấp của chính quyền Mỹ trong quá khứ. Hầu hết họ không phải là cư dân gốc của vùng này. Đây là lãnh thổ truyền thống của nhóm người R’Lơm (bao gồm Phi Đòp, Phi Nơm, Phi Ntơu, Phi Yàng). Với sự đồng ý từ họ, các cư dân này đã định cư ở đây. Theo truyền thống xưa, việc ăn ở “khu rừng” của các dòng họ khác thường đòi hỏi sự thương lượng và trao đổi giữa các chủ làng và chủ rừng. Khu rừng mà họ định cư và trồng trọt cùng với lúa nước được chia sẻ nhờ vào sự mua bán với người Sre. Trong bối cảnh thời đại đó, việc chia sẻ là điều bình thường, vì Tây Nguyên được miêu tả như một “đại ngàn”, nơi giàu có tự nhiên. Cuộc sống của người bản địa không chỉ kết nối chặt chẽ với thiên nhiên mà còn được hình thành bởi niềm tin tín ngưỡng cổ truyền. Theo quan niệm đó, mọi sự trong tự nhiên đều bắt nguồn từ Thần Linh và họ có nhiệm vụ bảo vệ và chia sẻ với nhau.

Có lẽ, người cư dân gốc của vùng đất này là người Mạ Tô, như được truyền thống văn hóa của xứ Mạ, Njrềñ và Ryông Tô nhắc đến. Điều này có vẻ chắc chắn. Trong cuốn sách “Miền Đất Huyền Ảo”, linh mục Jacques Dournes đã đề cập đến một nhóm người Mạ sống dưới chân núi Lang Biang, được biết đến là nhóm Mạ Ja. Ngoài ra, Henri Maitre đã gọi nhóm cư dân ở nguồn sông Đạ Đờn trong cuốn “Rừng Người Thượng” là nhóm Mạ Tô. Ranh giới giữa thôn 5 và thôn 6 ở Đạ Đờn vẫn chứng minh là khu mộ mai táng của người Mạ, có niên đại từ khoảng thế kỷ XVI – XVII. Cả người R’Lơm và người Sre, Ryông Tô và Ryông Sre trong vùng này, đều có mối liên kết với người Mạ, chia sẻ một nền văn hóa và sử dụng cùng một ngôn ngữ. Tuy nhiên, nhận thức của họ đã bị ngắt quãng và ảnh hưởng bởi yếu tố lịch sử, từ thời kỳ đế quốc Champa và sự phân loại tộc người sau này của chính quyền Pháp.

Bởi vì điều đó, vùng đất này vẫn lưu giữ những truyền thống huyền bí, những câu chuyện kỳ bí gắn liền với nền văn hóa của người Mạ như đã được kể trên. Có khả năng, người Mạ của làng Kòn Iar cũng là người Mạ Tô. Trong thời kỳ đô hộ của Champa, có những nhóm không chịu sự thống trị, họ đã di chuyển đến một nơi rất xa, cách đó hơn 100 cây số, được gọi là ƀòn Tờm. Con đường đi này khá gian nan. Có thể họ đã phân tán đến những nơi an toàn, tránh xa sự tác động của người Chăm. Ngày nay, ƀon Tờm là một địa danh thuộc thôn 2, xã Liêng Srồñ, Đam Rông. Việc di chuyển và định cư tại Dà R’Kôh chỉ diễn ra gần đây, trong thời kỳ thuộc địa của Mỹ. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng có những vùng đất trung gian mà họ đã từng định cư và canh tác tạm thời, và ngày nay vẫn tồn tại như các làng truyền thống khác. Nhiều gia đình trong khu vực vẫn duy trì mối quan hệ giao tiếp, đó là các địa danh như Dih Pe hay Dih Pai, R’Hang Trŭ, R’Hang Ngoñ, v.v., tất cả đều là phương ngữ của người Mạ.

Người Mạ cũng sống rải rác từ Phi Liêng (cách Dà R’Kôh khoảng 25 km) đến Đam Rông. Các cư dân di chuyển sâu hơn, thường phải sống nương nhờ vào cư dân gốc tại đó. Dần dần, họ tụ hợp lại với nhau và có mối quan hệ giao tiếp qua lại. Họ hình thành những ngôi làng dựa trên sự đa dạng của ngôn ngữ. Tuy nhiên, ý thức thuộc về người Mạ của họ không bao giờ mất đi. Ngôn ngữ của họ vẫn giữ nguyên đặc trưng của Mạ. Sau khi thoát khỏi sự đô hộ của Champa, họ đã quay trở lại quê hương của mình. Nhưng qua nhiều thế hệ, quê hương cũng trở thành nơi ở mới, trong khi nơi mà họ đã định cư và gắn bó qua nhiều thế hệ trở thành quê hương chính thức của họ, được gọi là Ƀòn Tờm (làng gốc).

Như đã trình bày, thôn Dà R’Kôh bao gồm nhiều làng khác nhau, và vì vậy, nguồn gốc của cư dân cũng đa dạng. Làng Rôh Men và Phi Lŭn đều có nguồn gốc từ Dà R’Săl, Lâm Đồng. Nhóm cư này ban đầu xuất phát từ Đăk Nông và là người M’Nông. Ở bên Campuchia, cũng có người M’Nông, ngôn ngữ của họ có điểm tương đồng với cư dân ở đây. Điều này xảy ra bởi vì trong quá khứ, ranh giới rạch ròi và quan niệm về quốc gia và dân tộc chưa được xác định rõ ràng. Nhiều cộng đồng cư dân sống xen kẽ nhau, và những cộng đồng mạnh mẽ hơn thường chiếm ưu thế về lãnh thổ và quyền lực. Cho đến năm 1975, ranh giới giữa các khu vực ở Việt Nam mới được xác định rõ ràng như ngày nay. Do đó, việc có các cư dân thuộc cùng một nhóm tộc nhưng sinh sống ở hai quốc gia khác nhau là điều dễ hiểu.

Cư dân của làng Phi Srôñ, như đã trình bày, cùng có nguồn gốc với làng Kòn Iar, bắt nguồn từ khu vực của xã Liêng Srôñ, Đam Rông ngày nay. Ngôn ngữ của nhóm cư dân này khác biệt hoàn toàn so với hai làng khác. Có vẻ như đó là sự trung gian giữa ngôn ngữ của người Mạ (K’Ho) và người M’Nông. Ngôn ngữ của họ kết hợp cả yếu tố của Mạ và M’Nông. Ví dụ: Các từ vựng của người Mạ như “lòt,” “bic,” “hào,” vv đều chia sẻ ngữ nghĩa; trong khi các từ vựng của M’Nông như “ngềt,” “ndì,” “ñĕ,” vv cũng chia sẻ cùng một ngữ nghĩa. Lớp cư dân này có truyền thống riêng về nguồn gốc, với những câu chuyện liên quan đến núi Nka và R’Mai, những ngọn núi nằm gần làng cũ của họ trong huyện Đam Rông. Tuy nhiên, do họ là dân di cư, họ đã mất đi bản sắc và không gìn giữ được truyền thống văn hóa của mình. Vì vậy, không có sự phát triển về mặt nghệ thuật trong cộng đồng này và họ thậm chí có vẻ rụt rè trong các hoạt động xã hội.

Cùng với làng Kòn Iar, nhóm cư dân này cũng tự nhận mình là người Mạ. Sau khi chính quyền thực hiện việc dồn dân lập ấp, quá trình phân chia tộc danh được tiến hành. Bên cạnh những cư dân cũ sử dụng ngôn ngữ của người Mạ và được phân loại vào nhóm K’Ho, hay “đơs do” theo cách nói của các cụ già, nhóm cư dân khác được phân loại là người Mạ vì sử dụng ngôn ngữ khác, hay “đơs ho”. Tuy nhiên, đáng chú ý là làng Kòn Iar, mặc dù sử dụng ngôn ngữ của nhóm K’Ho, nhưng vẫn tự nhận mình là người Mạ. Cách phân loại này phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền và quan điểm của họ.

Tuy nhiên, như đã trình bày, cư dân R’Lơm cũ có thể là người Mạ Tô, và họ có sự ảnh hưởng đặc biệt. Người Mạ được coi là một tộc người đồng nhất, có sự thống nhất tộc người cao. Họ từng có tiểu quốc riêng, trải dài từ Nam Bộ lên cao nguyên Lâm Viên. Có thể, trong quá khứ, khi các cư dân khác gia nhập vào lãnh thổ của họ, họ đã áp dụng cụm từ “nhập gia thì tùy tục.” Chính vì lẽ này mà văn hóa, thậm chí cả ngôn ngữ của họ đã chịu ảnh hưởng của người Mạ. Qua thời gian, sự phai nhạt của nhận thức về tộc người gốc của họ đã dần làm mờ và tộc danh mới được áp đặt, họ đã tự nhận mình là người Mạ. Tuy vậy, chúng ta không thể bỏ qua yếu tố quan trọng, đó là hòa huyết.

Chúng ta biết rằng, dù là người Mạ, Cil, Làc, Sre, M’Nông, Stiêng, Jro, các tộc người Nam Tây Nguyên đều tự gọi mình là Kòn Cau (hay Con Chau trong tiếng Việt), như đã được đề cập trong các bài viết trước.

Và tất nhiên, địa danh Dà R’Kôh, chúng ta chỉ có thể hiểu về mặt chữ trong ngôn ngữ của Kòn Cau.

Tên gọi Dà R’Kôh

Về từ nguyên, “dà” là “nước,” “r’kôh” là tên gọi một con mương dẫn nước tự nhiên. “R’Kôh” đồng nghĩa với dòng nước để tưới tiêu. Như vậy, “dà r’kôh” dòng nước tưới tiêu. Chúng ta biết được rằng, trong ngôn ngữ Kòn Cau, có rất nhiều tên gọi chỉ về các dòng nước khác nhau, như “dà cat, dà mbor, dà mồng, dà tràng, v.v.” Mỗi một tên gọi chỉ về một loại dòng nước khác nhau, đó có thể là suối, mạch nước chảy, mạch nước ngầm, v.v. 

Vậy vì sao họ lại đặt tên địa danh này là “Dà R’Kôh” ? 

Theo các nhà nghiên cứu, nhóm người nói ngữ hệ Nam Á (Môn-Khmer) là cư dân đầu tiên nhất đặt chân lên vùng núi cao nguyên. Họ phát xuất từ thượng lưu sông Mê Kông, dịch chuyển theo dòng sông và định cư tại nhiều nơi khác nhau. Ban đầu ngôn ngữ của cư dân này có nét tương đồng, những trải qua thời gian với sự khác xa về địa lý, môi sinh và giao lưu với các ngôn ngữ của các tộc người khác làm cho họ có sự khác biệt. Những nét chung vẫn được tìm thấy trong một vài từ vựng. Đồng thời, phong tục tập quán và kỹ thuật canh tác nông nghiệp có nhiều điểm tương đồng nhau. Đặc điểm chung của người Nam Á trong việc định cư, sinh sống và canh tác là họ thường chọn những nơi có dòng nước chảy qua. Đó có thể là bên cạnh một con sông, con suối, con mương, v.v. Và họ thường đặt tên địa danh nơi họ định cư gắn liền với tên dòng nước bên cạnh họ. Như vậy “Dà R’Kôh” là tên gọi của một con mương nhỏ chảy bên cạnh làng của họ.

Thật vậy, dọc theo quốc lộ 27, bên phải của nó có một con suối phát xuất từ đập thủy lợi R’Lơm. Trong thời Pháp thuộc, người Pháp đã xây dựng đập thủy lợi này cung cấp nước tưới tiêu cho các đồn điền, nông trại của họ trải dài từ R’Lơm cho đến trung tâm huyện Lâm Hà ngày nay. Đồng thời, nguồn nước này cũng được sử dụng để phục vụ cho việc làm ruộng trong các đầm lầy trải dài từ Thôn 4 xuống tận trung tâm huyện. Tại nút giao giữa thôn 4 và thôn An Phước, trên quốc lộ 27, khi đường quốc lộ chưa được đổ nhựa, người ta đã phân một nhánh nhỏ từ con mương này để dẫn vào bên trên làng Dà R’Kôh chảy xuống sông Đạ Đờn, với mục đích chính là phục vụ cho việc tưới tiêu. Tên gọi Dà R’Kôh phát xuất từ đó. 

Sau này, khi trồng cà phê người ta còn làm thêm một con mương nhỏ để dẫn nước đi theo đường trục chính của làng. Vì ngày xưa chưa có máy bơm như bây giờ, việc tưới tiêu chủ yếu dựa vào tự nhiên. Từng hộ gia đình chia sẻ cho nhau mạch nước từ nguồn nước chính phục vụ cho cây trồng của họ.

 Ký ức về Dà R’Kôh

Ký ức về Dà R’Kôh đem lại cho tôi những hình ảnh rất đặc biệt về tuổi thơ, những ngày hè rực rỡ tại ngôi làng không điện đóm này. Trong những kỷ niệm của tôi, Dà R’Kôh không chỉ là một địa danh truyền thống mà còn là biểu tượng của sự gắn bó với tự nhiên và đời sống cộng đồng đậm chất văn hóa.

Buổi sáng vắng lặng giữa ngôi làng, với những chiếc xe thồ được làm từ thân tre, bánh cao su, chúng tôi mang xoong nồi của buổi sớm được dùng để nấu cơm bên bếp lửa than để rửa, để chà lớp than đen bám xung quanh thành nồi. Đồng thời, chiếc xe thồ đó cũng có thể chở nước về từ dòng sông trong những cái thùng nhỏ để ăn uống và nấu nướng.

Mỗi ngày trưa hè, khi ánh nắng rực rỡ, chúng tôi thường rủ nhau ra suối tắm, để cảm nhận làn nước mát lạnh của dòng suối trong lành. Những trò chơi dân dã như nối vòng tay, nhảy dây, hay trò bắt ve sầu khiến chúng tôi gắn bó hơn với nhau. Kỷ niệm về việc lội qua con suối để tìm ổ chim rừng trong những ngày hè ấm áp cũng là một phần không thể quên của tuổi thơ tôi.

Chiểu hôm, khi người lớn quay trở về từ nương rẫy, nơi dòng sông dòng suối trở nên nhộn nhịp hơn, bởi vì người ta tắm rửa sau một ngày lao động vất vả đầy bụi bặm. Trẻ con chúng tôi nô đùa bên dòng sông, chúng tôi làm những con đường cát pha chút bùn dài từ trên cao bên bờ để trườn mình xuống dòng sông. Có khi, các bạn trai tạo những quả bóng tròn bằng cát và thi đua nhau lăn xuống, trái bóng cát của ai chắc và không bị vỡ thì người đó thắng cuộc.

Đến những ngày mùa của hoa dã quỳ, chúng tôi bẻ hoa để kết lên chiếc xe đạp, có khi tạo ra xe thô bánh của chúng là những bông hoa, đẩy từ sông trở về nhà. Mỗi lần bẻ hoa, mùi vị đắng còn đọng lại trên tay, đôi khi đưa lên miệng để liếm thử, đám bạn nhìn nhau cười ồ lên. Tuổi thơ vui vô cùng!

Ngoài ra, những câu chuyện cổ truyền từ các vị cao niên về Mpồng Yàng, Wàng R’Pu, Srò Kŏ Iŭt luôn làm cho trí tưởng tượng của chúng tôi bùng nổ. Chúng tôi thường dành những chiều tối tại làng để nghe các câu chuyện này, và mỗi lần nghe là một cuộc phiêu lưu mới trong tâm trí của chúng tôi.

Còn nhớ những lần nghịch ngợm, khi chúng tôi cùng nhau chặn dòng nước Dà R’Kôh để tạo ra những hồ tắm nhỏ. Dù tay chân bị nước ăn, nhưng niềm vui và sự hứng khởi vẫn không ngừng trong chúng tôi. 

 Những ngày mưa nhẹ, đất đủ ẩm ướt cũng là lúc có những đàn mối bay lên, chúng tôi thường ra bắt, chúng nguyên liệu chính để câu cá. Mỗi lần mưa, dòng suối sẽ trở nên dồi dào hơn, và mối sẽ xuất hiện nhiều hơn, đó là cơ hội để chúng tôi có thêm mồi câu cá ngon lành. Sau khi đã có mối, chúng tôi sẽ chuẩn bị câu cá và thả lưới xuống dòng sông. Cảm giác nhẹ nhàng nhưng hồi hộp khi đợi cá cắn mồi là không thể quên. Khi bắt được những con cá lớn, niềm vui tràn ngập và tự hào hiện hữu trong lòng mỗi chúng tôi.

Dòng suối trong lành cũng là nơi chúng tôi tập bơi lội và thi đua nhau. Nhờ đó, chúng tôi dẻo dai hơn, học cách vượt qua những trở ngại. Đôi khi, chúng tôi leo lên các cây cổ thụ cao ngất bên dòng suối để thả mình xuống dòng sông, thú vị vô cùng. Đi bơi thường đi đôi với việc chăn bò. Mỗi buổi sáng, chúng tôi đều ra đồng để chăm sóc và chăn nuôi bò. Những kỷ niệm về việc lái bò đi chăn đồng, ngắm cảnh thiên nhiên và hít thở không khí trong lành vẫn luôn sống động trong tâm trí tôi.

Đó là những khoảnh khắc đáng nhớ, đánh dấu một tuổi thơ vui vẻ và hạnh phúc tại Dà R’Kôh, nơi mà chúng tôi học hỏi và trưởng thành dưới bóng dáng của tự nhiên và văn hóa địa phương.

Về Ban biên tập

Hãy kiểm tra thêm

Ý nghĩa của núi trong văn hóa và tín ngưỡng: Từ Kinh Thánh, văn hóa Kòn Cau đến các tộc người trên thế giới

Núi, từ lâu, đã vượt ra khỏi ý nghĩa địa lý đơn thuần để trở …

Hiểu về văn hóa cổ truyền như thế nào ?

Văn hóa cổ truyền là biểu hiện sống động của bản sắc con người, được …

Vũ trụ quan và sự sống đời sau

“Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy, người …

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.