Câu hỏi vì sao cộng đồng Mạ và K’Ho (Sre) trong chữ viết tên gọi của người thường có sự phân biệt : Nam thì là K’ + tên gọi ; còn nữ là Ka + tên gọi ?
Điều này trước hết gợi nhắc đến nét đẹp ngôn ngữ bản xứ. Trước khi chữ viết được thành hình bởi việc ký âm hóa của các vị thừa sai tây phương, trong đó, đức cha Cassagne, linh mục Jacques Dournes, nhà dân tộc học Jean Boulbet cùng thầy của ông là yua ƀon Sar Luk Georges Condominas, v.v. ngôn ngữ nói thịnh hành trên cao nguyên. Và các tác phẩm văn học truyền khẩu với nhiều thể loại phát triển hầu khắp. Mỗi tộc người có những câu chuyện, tác phẩm và thể loại văn chương khác nhau và rất phong phú.
Tên gọi và quy tắc
Cũng nằm trong mạch của truyền khẩu, tên gọi của một người không chỉ mang tính cá vị, mà ở đó còn là sự nối tiếp hay “hiện thân” tên gọi của ông bà tổ tiên. Khi xưa, người ta chỉ gọi duy nhất một từ để đặt tên cho người. Ví dụ : Krơng, Krong, Kràng, Yàng, Làng, v.v. Tuy vậy, để phân biệt với tên địa danh và các tạo vật trong tự nhiên, tên gọi cũng vì thế kèm theo một tiền tố K’ – phó từ (tiếng Việt đọc là cơ). Vì người xưa không dùng căn cước công dân như hiện đại, tên gọi vì thế cũng không khó để nhận biết là nam hay nữ. Bởi lẽ, là người bản xứ, tên gọi được cất lên từ một ai đó, người nghe sẽ nhận biết đó là tên của người nam hay người nữ. Và dĩ nhiên, việc đặt tên có quy tắc của nó.
Quy tắc đầu tiên là lấy trực tiếp tên gọi của ông bà, những người thân yêu đã khuất bóng trong dòng họ, dòng tộc, gia đình. Điểm này, chúng ta dễ dàng nhận thấy có sự giống nhau với văn hóa người Do Thái cổ đại. Câu chuyện đặt tên cho Gioan Baptist nói lên điều đó. Khi bà Elisabeth cất lên tên của đứa bé, dân làng đã xầm xì mà rằng gia đình ông Dacaria không có tên đó. Điều này chứng tỏ rằng, việc đặt tên cho một đứa trẻ của người Do Thái thường được lấy tên ông bà, tổ tiên, người thân cận trong gia đình, dòng tộc. Điều này cũng rất thịnh hành đối với Kòn Cau (cộng đồng bản xứ Nam Tây Nguyên).
Quy tắc thứ hai là âm vần. Tên gọi thường được đặt dựa vào âm vần hoặc chữ cái đầu tiên con trai theo tên cha, con gái theo tên mẹ. Ví dụ, người cha tên Krang, con trai được đặt theo chữ cái như Kriang, Krơng, Krong, v.v ; người mẹ tên Yàng, con gái sẽ được đặt : Yồng, Yếu, Yùng, v.v. Hoặc nếu theo âm vần, tên cha là Krang, con trai sẽ là Bang, Tang, Mang, v.v. ; tên mẹ là Yàng, con gái sẽ là Sràng, Àng, Dàng, v.v. Quy tắc này cũng giúp nhớ tên tổ tiên, người quá cố trong gia đình, dòng họ, dòng tộc.
Chúng ta cũng sẽ bắt gặp các biệt danh biệt hiệu hay tên thường gọi thường ngày. Cộng đồng, thay vì gọi đích danh tên của một người nào đó, mọi người sẽ dùng biệt danh biệt hiệu. Các tên gọi thay thế này bắt nguồn từ đặc điểm, tài năng riêng, khuynh hướng và được người khác đặt cho. Việc gọi như vậy truyền tải sự thân thương và sự trìu mến mà người khác dành cho người được gọi.
Bên cạnh đó, tên gọi cũng xuất hiện tên dài, không chỉ một từ, những nhiều từ, trong đó, đàn ông con trai có từ “dam,” con gái có từ “kon.” Ví dụ : K’Tang dăm Jòng, K’ Thang dăm priơng; K’Làng kòn Dàng, K’Srang kòn Yàng, v.v. Đây là một nét riêng và chỉ dành cho những người thế giá đã trải qua một nghi lễ đặc biệt – chứng nhận sự trưởng thành – thuộc về thần linh. Hai nhà nghiên cứu là Jacques Dournes và Jean Boul được người bản xứ ưu ái đặt cho biệt danh “Dam Bò” (Jacques Dournes), “Dăm Bơt” (Jean Boulbet).
Tên gọi và phó từ chỉ người “K’”
Đây là một nét đặc biệt trong ngôn ngữ. Như đã trình bày, “K’” là một phó từ chỉ dành riêng cho việc gọi tên người, có phụ âm đầu là “c” và nguyên âm kết thúc là “ơ.” Chúng ta cũng sẽ bắt gặp các tiền tố phó từ có các phụ âm đầu như “b, d, h, tr, v.v.” và nguyên âm kết thúc“ơ.” Ví dụ “Bơnus, bơnơm, hơđăng, trơnau, rơnờm, v.v” Khi các tiền tố là các phó từ này được đọc cất lên, chúng ta sẽ cảm nhận sắc thái của sự đi vào, nhấn mạnh. Ở một vài địa phương, các chi tộc xuất hiện sự khuyết các tiền tố này, nhưng không vì thế mà hậu tố mất đi ý nghĩa. Hậu tố luôn có nghĩa khi đứng một mình. Nhưng khi có tiền tố, hậu tố thêm sự trang trọng và như được nhấn mạnh nổi bật lên nghĩa của sự vật sự việc.
Trong tên gọi người cũng vậy, tiền tố đôi khi trong đời thường người ta không cần cất lên khi gọi tên một ai đó. Bởi vì, tên gọi (hậu tố) tự nó đã có ý nghĩa rồi. Nhưng, tiền tố cần thiết vì mục đích nhấn mạnh và dĩ nhiên, cho người bao giờ cũng là tiền tố “K.” Nhưng câu hỏi, tại sao lại xuất hiện tiền tố “K” cho nam và “Ka” cho nữ.
Khi người ngoại quốc bắt đầu lập đồn điền và tạo ra ảnh hưởng đến cư dân bản địa Kòn Cau, họ quản lý nhân khẩu và thiết đặt dịnh danh. Nhưng khổ nỗi, người ngoài không hiểu quy tắc đặt tên và ý nghĩa tên gọi để phân biệt nam nữ, đàn ông đàn bà. Gặp ai, họ thấy ngoài tên gọi, tiền tố cũng như nhau. Và khi định danh trên giấy tờ, họ gặp phải khó khăn. Gặp trực tiếp, việc định danh sẽ dễ dàng vì họ nhìn thì biết. Nhưng khi được khai, họ buộc phải hỏi là nam hay nữ. Bởi đó, trên văn bản, họ đã ký âm hóa cho nữ, thay vì “K” thì lại là “Ka.” Và từ đó, nam nữ ở một số vùng miền có sự phân biệt rõ rệt giữa “K” và “Ka” cho đến ngày nay. Tuy nhiên, có một số vùng vẫn giữ nguyên “K” cho cả nam lẫn nữ. Vì đã chuyển đổi “K” thành “Ka,” âm đọc lên cũng sẽ khác. “Ka” đọc là “Ca” như trong Việt ngữ.
Sự phân biệt trong cách đặt tên của cộng đồng Mạ và K’Ho (Sre) với tiền tố “K’” cho nam và “Ka” cho nữ không chỉ là một nét độc đáo trong ngôn ngữ mà còn phản ánh chiều sâu văn hóa, truyền thống và cách tổ chức xã hội của người bản xứ. Việc sử dụng tiền tố này, cùng với quy tắc đặt tên dựa trên tên tổ tiên, âm vần hay biệt danh, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa con người, gia đình và dòng tộc, đồng thời lưu giữ ký ức tập thể qua các thế hệ. Hơn nữa, sự xuất hiện của “Ka” trong tên nữ, dù bắt nguồn từ sự ký âm hóa của người ngoại quốc, đã góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa, tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong việc định danh giới tính. Qua đó, nét đẹp ngôn ngữ và truyền thống đặt tên của cộng đồng không chỉ là di sản quý báu mà còn là minh chứng cho sự linh hoạt, thích nghi và gìn giữ bản sắc dân tộc trước những biến đổi của thời đại.